Thứ Năm, 7 tháng 3, 2013

GIẢI PHÁP CHO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC AN GANG



GIẢI PHÁP CHO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC AN GANG


                                                                                        La Hồng Huy
                                                                       Báo cáo tham luận tại Hội nghị Tổng kết

 

I . TÌNH HÌNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TỈNH AN GIANG


Giáo dục An Giang có nhiều thành quả đáng tự hào, quy mô giáo dục không ngừng tăng lên, mạng lưới trường lớp được mở rộng, số lượng học sinh THCS và THPT tăng nhiều, nhiều đơn vị đã được công nhận phổ cập THCS. Hệ giáo dục chuyên nghiệp được củng cố và phát triển mạnh, trường ĐHAG đã góp phần quan trọng vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh. Chất lượng giáo dục được củng cố và từng bước có tăng lên so với trước đây, công tác quản lý được từng bước đổi mới. Giáo dục đã đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội.

Bên cạnh những thành tựu, giáo dục còn một số yếu kém cần quan tâm khắc phục.
* Tỉ lệ học sinh phổ thông bỏ học còn cao so với trung bình chung cả nước. Tỉ lệ % học sinh bỏ học của An Giang/tỉ lệ % học sinh bỏ học cả nước năm học 2003 – 2004 là:
·       Tiểu học            :         4,6 / 2,63
·       THCS                :         10,9 / 5,72
·       THPT                :         17,5 / 7,71
* Chất lượng học tập các môn văn hóa của học sinh phổ thông còn thấp hơn tỉ lệ trung bình chung cả nước, điều này được thể hiện qua kết quả thi tốt nghiệp Tú tài và kỳ thi tuyển sinh đại học năm 2005. Phân tích phổ điểm thi 3 môn của 15.625 lượt thí sinh có hộ khẩu tại An Giang dự thi vào các trường đại học và cao đẳng trong cả nước cho thấy phần lớn học sinh chỉ đạt từ 2,5đ đến 10đ cho tổng số 3 môn thi; số học sinh trên 20đ là rất ít.
* Sự phân luồng học sinh phổ thông chưa hợp lý
* Đào tạo nghề chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Chất lượng đào tạo ngành nghề còn hạn chế, cơ cấu đào tạo cũng chưa hợp lý.

 Để đáp ứng cho yêu cầu CNH – HĐH , việc nâng cao chất lượng giáo dục là hết sức cấp thiết.

II. NGUỒN NHÂN LỰC CỦA TỈNH AN GIANG

An Giang là tỉnh có dân số đông hàng đầu của đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2004 dân số toàn Tỉnh 2.177.095 người, chủ yếu sống ở nông thôn. Số người đến tuổi lao động có khả năng lao động là 1.301.856 người chiếm 59,79% dân số toàn tỉnh. Có 1.064.457 người đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, trong đó khu vực I chiếm 73,20%, khu vực II chiếm 7,56%, khu vực III chiếm 19,24%. Hàng năm có khoảng 30.000 người đến tuổi lao động.

Nguồn nhân lực của An Giang rất dồi dào, nhưng chất lượng còn rất hạn chế, trình độ học vấn không cao, tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp mới chỉ đạt 16,25%, còn thấp so với tỉ lệ chung của cả nước. Số liệu thống kê của Bộ LĐ-TB & XH năm 2003 về tỉnh An Giang có:
- 1.006.399 người không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tỉ lệ 85,47%.
- 173.023 người có sơ cấp học nghề trở lên chhiếm tỉ lệ 14,53%.
- 69.751 người có bằng CNKT trở lên chiếm tỉ lệ 5,92%. Trong khi đó tỉ lệ này đối với trung bình chung cả nước là 11,84%, đối với đồng bằng sông Cửu Long là 6,03%. Như vậy so với trung bình chung cả nước và các tỉnh trong khu vực, chất lượng nguồn nhân lực của An Giang còn thấp hơn.

Chất lượng đào tạo và ngành nghề đào tạo còn hạn chế, cơ cấu đào tạo cũng chưa hợp lý, hiện nay cơ cấu đào tạo của An Giang là: 01 đại học cao đẳng; 2,87 trung cấp; 3,67 công nhân kỹ thuật (cơ cấu hợp lý phải là : 01 đại học cao đẳng, 04 trung cấp, 20 công nhân kỹ thuật lành nghề, 60 công nhân kỹ thuật bán lành nghề, 15 lao động giản đơn).

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh An Giang theo kịp các tỉnh trong khu vực và mức trung bình chung cả nước cần phải đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực từ nay đến năm 2010.

III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ


1. Tập trung thực hiện chỉ thị 40/CT về xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý. Đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng với sàng lọc đội ngũ, mạnh dạn cho thôi việc, thôi giữ chức vụ đối với giáo viên, CBQL không đáp ứng được yêu cầu, phát huy lực lượng trẻ.

2. Tránh hình thức, chạy theo thành tích ảo. Muốn đạt được yêu cầu này cần đẩy mạnh công tác thanh tra, đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục một cách khoa học, hạn chế được gian dối, thiếu trung thực trong kiểm tra, thi cử.

3. Đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện hiện đại phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học giáo dục và quản lý giáo dục ở tất cả các trường học và cơ sở giáo dục khác.

4. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, thu hút nhiều nguồn đầu tư trong và ngoài nước cho sự nghiệp giáo dục, đồng thời xây dựng từng bước xã hội học tập.

5. Đầu tư nâng cao chất lượng hoạt động của Trường Đại học An Giang.
* Giao cho trường Đại học An Giang làm đầu mối trung tâm trong đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực của Tỉnh.
* Tỉnh Ủy, UBND Tỉnh và các Sở, Ban, Ngành hổ trợ giúp đỡ cho trường ĐHAG thực hiện Nghị quyết 14/2005/NQ-CP của chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020. Một số vấn đề trước mắt cần quan tâm là:
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, để cho ĐHAG có thể mở rộng quy mô đào tạo đến năm 2010 đạt tỉ lệ 200 sinh viên/1 vạn dân ( khoảng từ 30.000 đến 40.000 sinh viên).
- Cho Giảng viên đi học sau đại học, đến năm 2010 có ít nhất 40% đạt trình độ thạc sỹ và 25% đạt trình độ tiến sỹ.
- Bố trí tối thiểu 1% ngân sách tỉnh hàng năm để cho trường ĐHAG thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.

6. Để cho các giải pháp thành hiện thực, nên triển khai, quản lý theo hình thức thực hiện từng dự án cụ thể, có quyết định giao cho từng Sở, Ban, Ngành liên quan thực hiện.


GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NẠN BUÔN BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM Ở TỈNH AN GIANG



GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NẠN BUÔN BÁN PHỤ NỮ
VÀ TRẺ EM Ở TỈNH AN GIANG

                                                                   La Hồng Huy *


I-               THỰC TRẠNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM.

Tình hình buôn bán phụ nữ và trẻ em hiện nay rất bức xúc, theo Thiếu tướng Phạm Xuân Quắc, Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm trật tự xã hội - Bộ Công an cho biết, tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài hiện nay đã trở thành vấn nạn. Trong lịch sử Việt Nam, người phụ nữ chưa bao giờ bị đem bán để làm vợ cho người nước ngoài. Đây là nỗi đau nhức nhối, sự ô nhục của dân tộc.

Đã có hàng chục nghìn phụ nữ và trẻ em bị lừa gạt buôn bán ra nước ngoài. Từ năm 1998 đến nay, ngành công an mới điều tra khởi tố 1.434 vụ, bắt giữ 2.488 đối tượng (trong đó có 1.112 vụ  với 1.991 đối tượng phạm tội mua bán phụ nữ; 322 vụ, 497 đối tượng phạm tội mua bán trẻ em).

Nguy hiểm hơn, đối tượng tội phạm loại này ngày càng tăng cường hoạt động với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt ở các tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam  - Campuchia. Ở các tuyến đường biên này, chỉ tính riêng từ  năm 2000–2004 đã xảy ra 232 vụ, với 474 đối tượng phạm tội mua bán phụ nữ và trẻ em bị bắt giữ. Bên cạnh đó, đã giải thoát cho hàng ngàn phụ nữ, trẻ em thoát khỏi cảnh nô lệ.

Ngoài mục đích môi giới hôn nhân, con nuôi, bọn tội phạm còn lợi dụng phụ nữ, trẻ em Việt Nam để đưa vào ngành công nghiệp tình dục ở nước ngoài để khai thác.  Ước tính của Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em, hàng năm có khoảng 500 phụ nữ, trẻ em bị xô đẩy từ nông thôn đến thành thị và qua biên giới để bọn tội phạm đưa vào phục vụ loại tệ nạn này. Riêng ở Campuchia, hiện tại, có khoảng 5.000 phụ nữ, trẻ em bị khai thác và bóc lột tình dục.


Buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em là một loại tội phạm mà cả loài người tiến bộ lên án vì nó xâm phạm nghiêm trọng quyền của phụ nữ, trẻ em, gây hậu quả trực tiếp cho nạn nhân, gia đình và xã hội. Đây là một vấn đề bức xúc, nóng bỏng, nhức nhối đang có chiều hướng gia tăng, mang tính xuyên quốc gia... Bảo vệ phụ nữ, trẻ em nói chung và phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em nói riêng cần được sự quan tâm    


II-             CHÂN DUNG NHỮNG NẠN NHÂN.

               Qua tìm hiểu 32 nạn nhân bị bán qua Campuchia từ 01.01.1998 đến 31.12.2002 trở về đã được Công An tỉnh An Giang xử lý chúng tôi nhận thấy:



1-     Phần lớn nạn nhân bị lừa bán ra nước ngoài với lý do là tìm việc làm.

                                       Bảng số 1. Lý do bị lừa bán ra nước ngoài.

SỐ TT
LÝ DO
TỶ LỆ (%)
1
Đem con đi bán trinh
6,25
2
Tìm việc làm
71,87
3
Bán con
12,5
4
Lấy chồng Đài Loan
6,25
5
Bán dâm
3,12


2-     Phần lớn nạn nhân là nữ tuổi rất trẻ, phần đông là dưới18 tuổi.

                         Bảng số 2: tuổi của nạn nhân lúc bị bán

SỐTT
TUỔI
TỈ LỆ (%)
1
13
6,66
2
14
9,99
3
15
13,33
4
16
23,33
5
17
13,33
6
18
16,66
7
19
6,66
8
20
3,33
9
21
3,33
10
26
3,33

3-     100% nạn nhân đều không có việc làm, hoàn cảnh gia đình nghèo, có nhiều khó khăn, học vấn thấp.

4-     Đâu là nguyên nhân?
              4.1. Sự nghèo đói.
              Hoàn cảnh gia đình nghèo đói, quá nhiều khó khăn vất vả trong cuộc sống, nợ nần chồng chất…….Chỉ cần một lời mời đi làm ăn với thu nhập cao, có nhiều khả năng “đổi đời” thì đa phần chị em hưởng ứng và trở thành nạn nhân của bọn buôn người.
              4.2.  Thiếu việc làm, thậm chí không có việc làm; việc làm thu nghập thấp, không ổn định ở địa phương, thu nhập không đủ trang trải chi phí cho nhu cầu hàng ngày… làm cho người phụ nữ có nhu cầu tìm một công việc khá hơn để cải thiện cuộc sống, bọn lừa đảo lợi dụng điểm nầy để gạt.
              4.3.  Trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết về pháp luật cũng như về xã hội, kiến thức về buôn bán phụ nữ trẻ em còn thiếu, bị đối tượng lừa gạt đưa sang bên kia làm việc kiếm tiền, người dân không biết mình đang bị lừa mà lại cho rằng đang được giúp …
               4.4. Quan hệ yêu đương, thanh niên nam nữ không tìm hiểu kỹ nên bị kẻ xấu lừa.
               4.5. Cha mẹ thiếu lương tâm,bán con để lấy tiền

                   III- GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NẠN BUÔN BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM

]                1- Tuyên truyền nâng cao kiến thức cho các nạn nhân bị buôn bán qua biên giới trở về và các đối tượng của các nhóm nguy cơ cao(các em gái và phụ nữ nghèo)  
  1.1- Xây dựng tờ rơi tuyên truyền, tổ chức tình nguyện viên hoạt động trong các địa bàn có nguy cơ cao
            *Nội dung tờ rơi: 
 - Buôn bán người là gì?
- Những thủ đoạn của bọn buôn người?
- Hậu quả mà nạn nhân phải gánh chịu?
- Các quy định pháp luật về bọn buôn người?
- Chúng ta làm gì để phòng ngừa?
- Làm gì khi chúng ta là nạn nhân?
- Một số địa chỉ cần thiết?

Trong quá trình phát tờ rơi, các tình nguyện viên sẽ kết hợp với tuyên truyền, cung cấp thông tin cho cộng động.
        1.2- Mở chương trình phát ở đài phát thanh và truyền thanh
            Dành 10 phút thứ bẩy hàng tuần cho phát thanh phòng chống buôn bán người.
           *Nội dung của các chương trình:
     + Cung cấp thông tin về nạn buôn bán người và cách phòng chống như: buôn bán người là gì? Ai là nạn nhân của những vụ buôn bán người? Những thủ đoạn của bọn buôn người? Hậu quả mà nạn nhân phải gánh chịu? Các quy định của pháp luật về buôn bán người? Chúng ta phải làm gì khi phát hiện hành vi của bọn buôn bán người? Chúng ta phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán? Làm gì để đề phòng bọn buôn người? Làm gì khi chúng ta là nạn nhân? Một số địa chỉ cần thiết?
     + Một số phóng sự ngắn phản ánh thực trạng buôn bán người  hoặc các vụ án xét xử bọn buôn người tại các địa phương khác nhau trong cả nước.
     + Hỏi đáp thông tin về nạn buôn người do các chuyên gia tư vấn trả lời.
     + 1 tháng 1 lần dành chương trình 10 phút cho diễn đàn của những nạn nhân của buôn bán, hoặc gia đình, nạn nhân chia sẻ về câu chuyện của mình.
     + Gửi các thông điệp chính: buôn người là một tội ác, nạn nhân buôn người không phải là một tội phạm mà cần được giúp đỡ, làm thế nào để phát hiện nạn nhân của buôn người, biểu hiện của bọn buôn người, cần phải làm gì khi bạn là nạn nhân hay bạn biết đó là nạn nhân.

          2-  Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về biện pháp phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em.
          Chị em phụ nữ nắm bắt được các thông tin để biết cách phòng tránh, nâng cao cảnh giác đấu tranh phòng chống tội phạm.

           3- Tổ chức thảo luận nhóm phụ nữ có nguy cơ
          Tổ chức họp nhóm phụ nữ nghèo theo tổ dân cư để nghe thông tin và thảo luận về bình đẳng giới, thủ đoạn lừa đảo của bọn buôn người, những hậu quả của nạn buôn người, các biện pháp phòng tránh…. 
          4- Giúp đỡ các đối tượng bị buôn bán trở về tái hoà nhập cộng đồng
Đây là vấn đề cấp bách. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội vừa có kế hoạch số 2065/KH-LĐTBXH thực hiện Đề án tiếp nhận và hỗ trợ phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về (Chương trình 130/CP)… Đề án này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về được tiếp nhận, hỗ trợ các dịch vụ pháp lý, y tế, giáo dục, xã hội phù hợp nhằm giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Đề án có nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực xã hội, y tế, pháp lý thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhiều ngành, đoàn thể, địa phương nên cần tổ chức thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến địa phương và cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành liên quan trong quá trình triển khai các hoạt động của Đề án.  Việc lồng ghép đề án này với đề án khác thuộc chương trình phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2005-2010 và các chương trình dự án khác có liên quan, nhằm phát huy nguồn lực, đảm bảo thực hiện có hiệu quả.
Phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về phải được hỗ trợ, giúp đỡ từ khi tiếp nhận và trong suốt quá trình phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng. Trước mắt, cần ưu tiên tập trung nguồn lực hỗ trợ cho các đối tượng là nạn nhân chịu hậu quả nặng nề do bị buôn bán, chưa ổn định cuộc sống; nạn nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đơn chiếc; nạn nhân không còn khả năng lao động và không còn người thân chăm sóc; nạn nhân thuộc hộ nghèo.
          Tìm cách cải thiện về kinh tế cho các đối tượng quay trở về cũng như nhóm chị em dễ bị tổn thương bằng các hoạt động cụ thể như dạy nghề, tạo công ăn việc làm ổn định cho chị em. Mặt khác lập các dự án hỗ trợ, tín chấp cho chị em vay vốn để phát triển các ngành nghề, học nghề cũng như phát triển kinh tế để các chị là nạn nhân bị buôn bán quay trở về được tái hoà nhập với cộng đồng.
5-     Tổ chức hướng nghiệp dạy nghề
              Tổ chức các buổi tư vấn và định hướng nghề nghiệp, giới thiệu các ngành nghề,thị trường lao động việc làm trong và ngoài tỉnh, để cho mỗi phụ nữ của nhóm có nguy cơ định hướng chọn được nghề nghiệpthích hợp với năng lực và sở trường của mình. Tổ chức các lớp dạy nghề theo nhu cầu lao động xã hội đồng thời giới thiệu việc làm sau đào tạo nghề
6-     Tích cực thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo
              Tích cực đẩy mạnh các hoạt động xóa đói giảm nghèo theo các chỉ thị và chương trình của Chính phủ và của tỉnh để sớm giảm tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới.
7-     Thúc đẩy bình đẳng giới để chống buôn bán phụ nữ và trẻ em



III-          KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.

               Tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài hiện nay đã trở thành vấn nạn, An Giang là một tỉnh biên giới, trong thời gian qua có nhiều vụ buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới đã được phát hiện và xử lý. Bên cạnh còn nhiều vụ việc chưa phát hiện, còn một số phụ nữ và trẻ em chưa được giải thoát trở về, sắp tới cần tích cực hơn để giúp đỡ những nạn nhân nầy

               Để làm giảm đến mức thấp nhất số vụ buôn bán phụ nữ và trẻ em, rất cần sự quan tâm đầu tư thích đáng của các cấp, các ngành trong việc phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới làm sao đến năm 2010 cơ bản An Giang xóa được loại tội phạm nầy.

              An Giang cần có chương trình hành động phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ trẻ em từ nay đến năm 2010 với mục tiêu của chương tình nầy là nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp, các ngành, đoàn thể và toàn xã hội trong việc phòng ngừa và ngăn chận tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em. Trọng tâm là thực hiện được 7 giải pháp nêu trên.




                         *TÀI  LIỆU THAM KHẢO

1-     Việt Nam net  (đọc ngày 23.3.2005)
2-     Thời báo kinh tế Việt Nam năm 2006
3-     Báo Phụ nữ Việt Nam (ngày 07.7.2006)
4-     Chương trình 130/CP và kế hoạch số 2065/KH-LĐTBXH.
5-     Bảng thống kê kết quả điếu tra-xử lý các vụ án mua bán phụ nữ-trẻ em ra nước ngoài cùa Công An tỉnh An Giang.



     * ThS. Q.Giám đốc Trung tâm nghiên cứu KHXH&NV- trường đại học An Giang
         Email: lhhuy@agu.edu.vn  / huylahong@yahoo.com





DÙNG TỪ CỦA NGƯỜI CẦM BÚT VIỆT NAM



DÙNG TỪ CỦA NGƯỜI CẦM BÚT VIỆT NAM

Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, các báo cáo tổng kết, tham luận...chúng ta thường gặp các cụm từ:

"- Cơ bản hoàn thành nhiệm vụ
  - Nhìn chung là tốt
  - Đa số tán thành
- Một số còn sai/một bộ phận
- .........."

          Còn nhiều cụm từ không xác định tương tự khác được dùng rất phổ biến.

Đây thực ra là cách nói/viết cho qua, che dấu sự thật mang tính chất "lừa mị" "đại bịp", thông tin không có gì, để nhằm lừa gạt người có trình độ thấp.

             Về mặt giá trị khoa học và chân thật của một phán đoán thì nó không có ý nghĩa gì, chẳng hạn:

- Như thế nào là "cơ bản"? chưa có định nghĩa chính xác, cho nên khi giải quyết được 2/100 vụ tham nhũng, thi hành được 10/100 bản án của tòa...cũng được xem là cơ bản hoàn thành?
             - “Một bộ phận”, “một số” là bao nhiêu %? Lấy nguồn từ đâu?
             - “Nhìn chung” là như thế nào?
             - .......................

             Không biết bao giờ các quan chức và những người cầm bút Việt Nam không dùng các cụm từ nầy?
                                                                                         La Hồng Huy

THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN VIỆC KIỂM TRA MÔN SINH HỌC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DÂN LẬP CHƯỞNG BINH LỄ TỈNH AN GIANG



THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN VIỆC KIỂM TRA MÔN SINH HỌC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DÂN LẬP
CHƯỞNG BINH LỄ TỈNH AN GIANG

                                                                                       La Hồng Huy *


          I-VÀI VẤN ĐỀ CHUNG.

          Môn sinh học là môn khá quan trọng trong chương trình học bậc trung học phổ thông (THPT), nó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, thực hiện chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cũng như nguyện vọng của toàn xã hội trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ.

          Từ lâu Ngành Giáo dục quá chú ý đến đổi mới phương pháp dạy-học (PPDH), nhưng ít chú ý đế khâu kiểm tra đánh giá, đây là vấn đề cốt lỏi đã ảnh hưởng đến hiệu quả của việc cải tiến đổi mới PPDH. Kiểm tra đánh giá là một thành tố của quá trình sư phạm, nó giúp quá trình sư phạm được thực hiện toàn vẹn có hiệu quả, vì thế từ lâu các nhà lý luận đã xem đánh giá có vai trò như nội dung.

          Xuất phát từ quan niệm chất lượng giáo dục phổ thông là sự phù hợp với mục tiêu giáo dục phổ thông, quá trình sư phạm là một quá trình thống nhất toàn vẹn được cấu trúc bởi các thành tố: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, người dạy, người học, đánh giá kết quả… Chúng tôi cho rằng việc cải tiến đổi mới kiểm tra đánh giá môn Sinh học có vai trò hết sức quan trọng đối với việc vận dụng quan niệm dạy học mới “Dạy-học hướng tập trung vào người học”. Đổi mới PPDH nhưng đánh giá không đổi mới đương nhiên sẽ hạn chế việc đổi mới PPDH. Chính cách kiểm tra đánh giá của giáo viên làm thay đổi càch học của học sinh.

          II. THỰC TRẠNG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN SINH HỌC Ở TRƯỜNG THPT DÂN LẬP CHƯỞNG BINH LỄ TỈNH AN GIANG.
(Từ năm học 2003 đến 2005)

          1. Công cụ đánh giá.
          Môn Sinh học cũng như các môn học khác, chủ yếu là câu hỏi luận đề để đo đạt kết quả học. Các câu hỏi thường sử dụng câu hỏi trong sách giáo khoa, giáo viên không dám ra câu hỏi khác vì đề thi của Sở Giáo dục và Bộ Giáo dục phần nhiều trích từ các câu hỏi trong sách giáo khoa .

          Hệ thống câu hỏi yêu cầu chính là học sinh tái hiện lại kiến thức đã học, Phần học sinh vận dụng kiến thức, giải quyết tình huống…rất ít. Có thể nói công cụ đánh giá nầy chỉ dựa vào trí nhớ của học sinh là chính.
          2. Cách tổ chức kiểm tra.
          Trước khi kiểm tra 15 phút, 1 tiết hay học kỳ, giáo viên cho trước một số câu hỏi để học sinh chuẩn bị soạn phần trả lời rồi học thuộc lòng, đến khi kiểm tra thì viết lại nguyên văn. Các bài tập cũng cho trước và giải mẫu cho học sinh học thuộc bài giải. Nội dung đề kiểm tra không có gì nằm ngoài sự chuẩn bị của học sinh.

          3. Kết quả học.
          Phần lớn học sinh đạt điểm trên trung bình, nhìn vào kết quả điểm số chúng ta thấy kết quả rất khả quan, nhưng xét về chất lượng thật thì còn nhiều tồn tại đáng lo ngại.
          - Học sinh học thụ động,chưa tích cực tham gia xây dựng bài học, ít đào sâu suy nghĩ tìm tòi, ít thắc mắc; chưa chú ý học thường xuyên, chỉ chờ đến khi có câu hỏi kiểm tra mới lo học các câu hỏi ấy, chỉ học trả lời theo câu hỏi mà không học theo hệ thống kiến thức trọng tâm.
          - Học sinh rất mau quên những điều đã thuộc.
          -Với những nội dung đã thuộc, khi kiểm tra học kỳ (Sở Giáo dục ra đề) chỉ có thay đổi một tí thôi, thì phần nhiều học sinh không làm được.
          -Học sinh vẫn học bài theo lối học thuộc máy móc, không chú ý thay đổi phương pháp học.

          III. THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ Ở TRƯỜNG THPT CHƯỞNG BINH LỄ TỈNH AN GIANG TRONG NĂM HỌC 2005-2006.

          1. Các quan niệm về kiểm tra đánh giá môn sinh học trong thử nghiệm nầy.

          - Đánh giá được học sinh có thể hiểu và nhớ được những kiến thức cơ bản của môn học, chủ yếu là nhớ ý nghĩa theo hệ thống kiến thức của chương trình.
          - Đánh giá được việc áp dụng kiến thức để giải quyết tình huống cụ thể, sự độc lập sáng tạo của học sinh.
          - Đánh giá được động cơ, hứng thú, thái độ học tập của học sinh.
          - Thông báo cho học sinh các thành tích, tiến bộ và nhược điểm để học sinh hoàn thiện phương pháp học, nâng cao chất lượng học tập theo hướng tích cực hóa quá trình dạy-học.
          - Công cụ đánh giá có sự kết hợp đánh giá theo truyền thống (có cải tiến) và trắc nghiệm khách quan.

          2. Các cải tiến.

          2.1. Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm.
          Sau mỗi bài học, mỗi chương chúng tôi hướng dẫn học sinh hệ thống lại các kiến thức trọng tâm cần hiểu và cần nhớ để làm kiểm tra.


          2.2. Cải tiến lại các đề kiểm tra.
          - Không cho trước các câu hỏi như trước đây để học sinh soạn đề cương và học theo câu hỏi.
          - Đề kiểm tra có sự kết hợp giữa tự luận và trắc nghiệm khách quan. Tùy theo nội dung kiến thức mà chọn lựa hình thức cho thích hợp.Nội dung đề gồm có các phần sau đây.
          + Câu trắc nghiệm khách quan.
          + Câu hỏi dưới dạng đặt vấn đề có nhiều cách lý giải, hoặc chọn ra một vấn đề đúng và giải thích (Dạng song đề nhận thức); câu hỏi trả lời ngắn theo sự hiểu biết và suy luận.
          + Bài tập vận dụng lý thuyết đã học (Chú trọng việc nắm cách giải, phương pháp suy luận để giải, hạn chế việc học thuộc lòng bài mẫu). Vì thế bài tập trong đề kiểm tra đều có thay đổi so với bài tập đã giải trên lớp.
          Tinh thần chung là chúng tôi đã cố gắng thông qua việc cải tiến kiểm tra đánh giá làm cho học sinh cải tiến cách học, học một cách tích cực, chủ động và sáng tạo, mới có thể đạt được điểm tối đa.

          3. Tổ chức thử nghiệm.
          Chúng tôi đã thực hiện thử nghiệm ở khối lớp 11 trong năm học 2005-2006.
          Lý do chọn đối tượng nầy là vì chúng tôi đang trực tiếp giảng dạy thuận lợi cho việc tiến hành thử nghiệm; đây là khối lớp mà chúng tôi có quyền ra đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết và học kỳ đồng thời trực tiếp chấm điểm (Riêng khối lớp 12 Sở Giáo dục ra đề thi học kỳ thống nhất trong toàn tỉnh nên khó thực hiện đổi mới theo thử nghiệm).

          4. Kết quả thử nghiệm.
          Qua một năm học thử nghiệm chúng tôi đạt được kết quả khả quan, cụ thể là:
          * Học sinh học tập tích cực chủ động hơn trước, hạn chế được cách học thụ động; phát huy được độc lập suy nghĩ của học sinh (Qua kết quả quan sát trong tất cả các giờ học của học sinh).

          * Kết quả điều tra bằng phiếu hỏi toàn bộ học sinh lớp 11 cho thấy kết quả như sau:
          95,32% học sinh cho rằng đề kiểm tra câu hỏi chỉ cần hiểu bài có thể trả lời được là phù hợp nhất; chỉ có 4,67% ý kiến cho rằng câu hỏi đòi hỏi phải thuộc bài  là phù hợp.
          76,31% học sinh đồng ý hình thức trắc nghiệm khách quan là phù hợp; 19,29% học sinh chấp nhận đề kiểm tra có câu hỏi ngắn; chỉ có 4,38% học sinh chấp nhận câu hỏi luận đề.

          * Đối với các đề kiểm tra đã làm, có:
 92,15% học sinh đánh giá là tốt;
7,84% không có ý kiến;
 không có ý kiến nào đánh giá chưa tốt.
          * 70% học sinh nhìn nhận với cách kiểm tra mới làm cho bản thân có hứng thú trong học tập và có tác động làm thay đổi cách học theo hướng mới.

          * Thống kê kết quả điểm của các loại bài kiểm tra của học sinh đảm bảo phân hóa được trình độ học sinh, đảm bảo được đường cong chuẩn.

          IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.

          Kiểu đánh giá môn sinh bằng hình thức tự luận có nhiều hạn chế như nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh. Để nâng cao chất lượng dạy học môn học nầy cần phải thay đổi cách kiểm tra đánh giá, cần có công cụ đánh giá khách quan.

          Qua một năm học thử nghiệm, bước đầu chúng tôi có vài kết luận

          - Đề kiểm tra môn Sinh học thích hợp nhất là câu hỏi đặt ra yêu cầu học sinh hiểu bài và ghi nhớ ý nghĩa nội dung học.
          - Hình thức trắc nghiệm kết hợp với câu hỏi ngắn là có nhiều ưu điểm.
          - Công cụ đánh giá phải được thử nghiệm và hoàn thiện dần, tiến đến chuẩn hóa.
          - Khi thay đổi cách đánh giá, chắc chắn sẽ dẫn đến thay đổi cách dạy và cách học. Vì vậy muốn đổi mới PPDH cần phải quan tâm đầu tư nghiên cứu đổi mới cách đánh giá cho phù hợp.

          Chúng tôi nghĩ rằng Bộ Giáo duc& Đào tạo, Sở GD&ĐT nên sớm ban hành bộ công cụ chuẩn hóa đánh giá kết quả học tập môn Sinh học cũng như các môn khác, làm sao đánh giá được chất lượng thật sự của học sinh, chúng ta mới có thể tránh được tệ nạn gian dối, thiếu trung thực trong kiểm tra đánh giá và hàng loạt các tiêu cực khác …là nguyên nhân quan trọng làm cho chất lượng giáo dục chưa đảm bảo được yêu cầu đã diễn ra trong thời gian qua.






* ThS. Giám đốc Trung tâm nghiên cứu KHXH&NV đại học An Giang